ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 60 NĂM THẢM HỌA CHẤT ĐỘC DA CAM/DIOXIN Ở VIỆT NAM (10/8/1961 - 10/8/2021)
Chất độc da cam (tiếng Anh: Agent Orange - Tác nhân da cam) là tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam trong Chiến dịch Ranch Hand, một phần của chiến tranh hóa học của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chất độc màu da cam có chứa dioxin là một chất độc cực mạnh, rất bền vững, khó phân hủy, tồn tại rất lâu trong môi trường, làm cho đất và nước bị ô nhiễm nặng, cây rừng bị hủy diệt. Chất độc dioxin không chỉ gieo rắc cái chết mà nó còn để lại những di chứng cho nhiều thế hệ sau của người bị nhiễm.
I. THẢM HỌA DA CAM Ở VIỆT NAM
1. Chất độc da cam/dioxin - Chất độc nhất trong các chất độc
Chất độc da cam (tiếng Anh: Agent Orange - Tác nhân da cam) là tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam trong Chiến dịch Ranch Hand, một phần của chiến tranh hóa học của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chất độc màu da cam có chứa dioxin là một chất độc cực mạnh, rất bền vững, khó phân hủy, tồn tại rất lâu trong môi trường, làm cho đất và nước bị ô nhiễm nặng, cây rừng bị hủy diệt. Chất độc dioxin không chỉ gieo rắc cái chết mà nó còn để lại những di chứng cho nhiều thế hệ sau của người bị nhiễm.
Khi dioxin được rải xuống, nó không chỉ phá hủy cây cối, động vật và con người, nó còn thấm vào đất và nguồn nước ngầm, trở thành một phần của chuỗi thực phẩm. Khi ai đó ăn phải các loại cây trồng hoặc động vật đã bị nhiễm dioxin, dioxin sẽ tích lũy trong các mô mỡ. Đơn vị đo tác hại của dioxin trên cơ thể con người được tính bằng ppt (picrogram - phần tỷ của miligram), một người khoẻ mạnh chỉ cần nhiễm vài ppt là đã ảnh hưởng đến nhiều bộ phận cơ thể. Thời gian bán hủy của dioxin trong cơ thể con người ước tính từ 12 đến 20 năm. Nồng độ càng lớn, thời gian phân hủy sẽ lâu hơn rất nhiều. Khi dioxin thấm vào đất, thời gian để phân hủy của nó cũng được tăng lên, có thể mất hàng chục năm.
Những tác động và biến chứng của chất độc da cam/dioxin (CĐDC) đối với con người thường thấy là:
- Gây kích ứng da và các bệnh ngoài da.
- Rối loạn thần kinh.
- Gây sẩy thai.
- Bệnh tiểu đường type 2.
- Dị tật bẩm sinh cho đời sau.
- Gây các bệnh ung thư, bệnh Hodgkin, bệnh bạch cầu.
2. Thảm họa CĐDC đối với người dân Việt Nam
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ không chỉ dùng các loại bom đạn gây thương vong mà còn sử dụng cả chất độc hóa học nhằm triệt hạ nguồn sinh sống của nhân dân Việt Nam, ngăn chặn bước tiến của các lực lượng vũ trang cách mạng; đồng thời, biến Việt Nam thành phòng thí nghiệm khổng lồ để nghiên cứu, thử nghiệm các loại chất độc phục vụ mục đích quân sự. Cuộc chiến tranh hóa học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam là cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, gây hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử loài người.
Từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ, phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% trong đó là chất da cam chứa 366 kg dioxin xuống gần 26.000 thôn bản, với diện tích hơn 3,06 triệu ha; trong đó có 86% diện tích bị phun rải hơn 2 lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần. CĐDC đã tác động mạnh mẽ, lâu dài tới môi trường, các hệ sinh thái và sức khỏe con người.
Gần 25% tổng diện tích miền Nam Việt Nam, bao gồm hầu hết các hệ sinh thái từ vùng thấp ven biển đến vùng đồi núi cao thuộc 5 vùng sinh thái: Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ đều bị ảnh hưởng, trong đó, Đông Nam Bộ là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất (56% diện tích tự nhiên bị phun rải). Khoảng 86% lượng chất độc đã được phun rải lên các vùng rừng rậm; 14% còn lại được dùng để phá hủy ruộng vườn, hoa màu, chủ yếu là đồng lúa và nương rẫy ở các vùng đồi núi. Diện tích rừng ngập mặn bị ảnh hưởng chất dộc hóa học là 150.000 ha, điển hình là khu rừng ngập mặn ở Cà Mau.
Với một lượng khổng lồ chất độc hóa học phun rải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, môi trường bị ô nhiễm nặng nề, các hệ sinh thái bị đảo lộn, nhiều loài thực vật và động vật bị tiêu diệt. Thay vào đó, nhiều loài cỏ dại xuất hiện gọi là cỏ Mỹ (Pennisetum polystachyum), cỏ tranh (Imperata cylindrica) và các loài lau, sậy dần dần xâm lấn đất rừng, làm xói mòn lớp đất màu.
Do rừng bị tàn phá nặng nề nên chức năng bảo vệ môi trường của rừng phòng hộ đầu nguồn của 28 lưu vực sông cũng bị phá vỡ, gây nhiều thiệt hại trực tiếp và gián tiếp cho nền kinh tế. Hậu quả là trong nhiều năm qua, lũ lụt đã tàn phá nghiêm trọng lưu vực các con sông: Thạch Hãn, Hương, Hàn, Thu Bồn, Trà Khúc, Côn, Vệ, Cầu, Ba… gây nhiều thiệt hại về người và của đối với nhân dân trong vùng.
Tại Bình Thuận, theo số liệu khảo sát của tỉnh, quân đội Mỹ đã phun rải trực tiếp xuống 65.473 ha, chiếm 8,4% diện tích đất đai toàn tỉnh; gây phơi nhiễm CĐDC cho gần 6.000 người.
Hầu hết những người bị nhiễm CĐDC của tỉnh Bình Thuận là cán bộ kháng chiến, bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và nhân dân sống trong vùng bị rải chất độc; một số là những người từng phục vụ trong chính quyền Sài Gòn cũng bị nhiễm CĐDC.
Các nạn nhân mang trong mình căn bệnh quái ác, di truyền sang đời con, cháu. Họ đã và đang chết dần, chết mòn, đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. Trong số họ có nhiều cảnh ngộ bi đát, tuyệt vọng vì bệnh tật giày vò. Nhiều gia đình có nhiều nạn nhân rơi vào cảnh khó khăn, kiệt quệ, không thể kể hết những hoàn cảnh thương tâm. Trong số bị nhiễm CĐDC ở Bình Thuận có gia đình 8 người thuộc 3 thế hệ đều là nạn nhân, như gia đình bà Trần Thị Chi ở xã Võ Xu, huyện Đức Linh; gia đình bà Hoàng Thị Lư ở xã Hàm Kiệm, huyện Hàm Thuận Nam có chồng (đã chết), 02 con gái, 03 cháu ngoại đều bị tâm thần, mù lòa; gia đình ông Nguyễn Phú Phúc ở xã Hàm Hiệp, Hàm Thuận Bắc cả 05 cha con đều là nạn nhân; gia đình chị Trần Thị Huệ ở xã Hồng Thái, huyện Bắc Bình sinh ra 03 người con trai thì 02 cháu lần lượt ra đi, còn một cháu đang bị bệnh nặng…
CĐDC đã làm cho 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm, hơn 3 triệu người là nạn nhân, gây nên biết bao thảm cảnh không sao kể xiết. Rất nhiều gia đình có 3 nạn nhân trở lên. Có gia đình cả 15 người con đều là nạn nhân CĐDC. Hàng trăm nghìn nạn nhân đã chết, hàng trăm nghìn người đang vật lộn với bệnh tật hiểm nghèo. Các bệnh phổ biến ở con cháu các nạn nhận CĐDC là liệt hoàn toàn hay một phần cơ thể, mù, câm, điếc, thiểu năng trí tuệ, tâm thần, ung thư, tai biến sinh sản, dị dạng, dị tật bẩm sinh. Đặc biệt, CĐDC có thể di truyền qua nhiều thế hệ. Ở Việt Nam, di chứng da cam đã truyền sang thế hệ thứ 3. Phần lớn những gia đình nạn nhân CĐDC đã và đang sống trong khổ đau, bệnh tật, đói nghèo và vô vọng. Họ là những người nghèo nhất trong những người nghèo, người đau khổ nhất trong những người đau khổ.
Hội thảo quốc tế lần thứ II về chất độc hóa học diệt cỏ do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam và tác hại lâu dài của nó đối với thiên nhiên và con người (tại Thủ đô Hà Nội, từ ngày 15 - 18/11/1993) đã kết luận: “Chất độc da cam của Mỹ đã hủy diệt thiên nhiên cây cỏ; hủy diệt sức khỏe con người, gây nhiều bệnh tật nặng nề; gây nên những biến đổi gen di truyền qua mẹ hoặc bố, gây tai biến sinh sản, quái thai, dị dạng, dị tật của những đứa con sinh ra; gây các bệnh ung thư…”.
Không chỉ người Việt Nam mà nhiều lính Mỹ, Hàn Quốc, Australia, New Zealan… từng tham chiến ở Việt Nam trước đây cũng mắc nhiều bệnh tật do phơi nhiễm CĐDC. Theo Đô đốc Elmo Zumwalt - nguyên Tư lệnh các lực lượng Hải quân - Không quân Mỹ ở Việt Nam (1968 - 1970), có ít nhất 2,6 triệu lượt binh Mỹ bị phơi nhiễm CĐDC. Mỗi năm, Chính phủ Mỹ phải trợ cấp cho các cựu binh Mỹ bị bệnh liên quan đến CĐDC số tiền hàng tỉ USD (năm 2010 là 13,5 tỉ USD). Theo Hội Cựu chiến binh thương tật do chất da cam Hàn Quốc, có 100 nghìn/300 nghìn lượt binh sĩ Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam là nạn nhân, trong đó có 20 nghìn người đã chết. Chính phủ Hàn Quốc trợ cấp cho các binh sĩ này mỗi năm 130 triệu USD…
II. VIỆT NAM VỚI VIỆC KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH HÓA HỌC
1. Từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề CĐDC
Năm 1980, Ủy ban Quốc gia điều tra hâụ quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam (Ủy ban 10 - 80) được thành lập. Ủy ban này đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu, tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế nhằm xác định quy mô, tác hại của cuộc chiến tranh hóa học đối với môi trường và con người.
Ngày 16/6/1997, tại Công văn số 725-CV/VPTW, Văn phòng Trung ương Đảng thông báo ý kiến của Thường vụ Bộ Chính trị về vấn đề chất độc hóa học do Mỹ sử dụng ở Việt Nam: “Chất độc hóa học do Mỹ dùng trong chiến tranh gây ra cho nhân dân ta những hậu quả nặng nề và lâu dài. Chúng ta cần chủ động, khẩn trương nghiêm cứu, đánh giá chính xác và đầy đủ những hậu quả này và có những giải pháp cơ bản, toàn diện để khắc phục”.
Ngày 03/4/1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 74/1998/QĐ-TTg tiến hành xác định nạn nhân bị hậu quả hóa chất do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam để có cơ sở cho việc đề xuất chủ trương và giải pháp cơ bản khắc phục hậu quả. Cuộc điều tra tiến hành trong hai năm 1998 - 1999 trên phạm vi cả nước. Đối tượng là những người từng công tác, chiến đấu, sinh sống ở những vùng bị rải hóa chất trong chiến tranh mà bản thân hoặc con đẻ của họ bị dị dạng, dị tật, mắc bệnh hiểm nghèo do hóa chất độc gây nên. Sau đó có điều tra bổ sung vào các năm 2002 và 2004.
Ngày 01/3/1999, Ban Chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam (Ban Chỉ đạo 33) được thành lập theo Quyết định số 33/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ban Chỉ đạo 33 có chức năng, nhiệm vụ được Thủ tướng giao là xây dựng kế hoạch hàng năm, kế hoạch dài hạn; chỉ đạo, quản lý và tổ chức triển khai kế hoạch hành động từ Trung ương đến địa phương, khắc phục hậu quả CĐDC.
Ngày 05/7/2002, Bộ Chính trị ra Thông báo số 69-TB/TW về chủ trương của ta đối với việc giải quyết hậu quả của việc Mỹ sử dụng chất độc hóa học trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam. Thông báo nêu rõ: “Giải quyết hậu quả chất độc da cam (dioxin) là vấn đề lâu dài, nhưng cũng là vấn đề rất cấp bách hiện nay… Do vậy, thời gian tới cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và có những biện pháp mạnh mẽ hơn để giải quyết có hiệu quả vấn đề phức tạp này”. “Cần có chế độ, chính sách và đầu tư kinh phí phù hợp để hỗ trợ, chăm sóc, chữa trị cho các nạn nhân (là cán bộ, chiến sĩ đã tham gia kháng chiến cũng như các đối tượng khác) bị nniễm chất độc da cam”. “Tăng cường vận động một số nước, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ… có khả năng hỗ trợ khắc phục hậu quả chất độc da cam, giúp đỡ các nạn nhân”.
Ngày 05/2/2004, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 16/2004/QĐ-TTg về trợ giúp đối với hộ gia đình có từ 2 người trở lên không tự phục vụ được do hậu quả chất độc hóa học.
Ngày 27/4/2004, Kế hoạch hành động giai đoạn 2004 - 2010 khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam đã được phê duyệt tại Quyết định số 67/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 29/6/2005, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 về ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó quy định người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của họ bị dị dạng, dị tật, suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt hoặc lao động là đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng.
Ngày 06/4/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2010/NĐ-CP, theo đó, mức trợ cấp chính của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học gần bằng mức trợ cấp của bệnh binh.
Ngoài việc ban hành các chủ trương, chính sách, Nhà nước đã chi những khoản kinh phí lớn hàng năm để trợ cấp, chăm sóc sức khỏe nạn nhân, triển khai các dự án tẩy độc, phục hồi môi trường sinh thái.
Chỉ tính từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã chi hàng trăm tỉ đồng cho các đề tài nghiên cứu khoa học, triển khai các dự án chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho nạn nhân CĐDC, hỗ trợ một số vùng đặc biệt khó khăn do bị ảnh hưởng nặng nề của CĐDC. Hàng năm nhà nước chi hơn 50 triệu USD để trợ cấp hàng tháng cho các nạn nhân CĐDC.
2. Một số kết quả bước đầu:
- Từ năm 2010 đến nay, hơn 30 đề tài khoa học cấp nhà nước trong Chương trình Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (Chương trình 33) đã được triển khai. Kết quả nghiên cứu đã phục vụ thiết thực cho việc khoanh vùng, tẩy độc và phục hồi môi trường; xây dựng chính sách hỗ trợ nạn nhân; điều tra, thu nhập, lưu giữ các bằng chứng về hậu quả của CĐDC phục vụ công tác tuyên truyền và đấu tranh ngoại giao; soạn thảo luận cứ xây dựng khu chứng tích chiến tranh hóa học.
- Công tác tẩy độc, khắc phục ô nhiễm môi trường được triển khai tích cực. Đã xác lập được công nghệ chôn lấp tích cực (kết hợp cô lập với sinh học) với quy mô 3.600 m3 đất nhiễm dioxin và hoàn thành việc xây dựng khu chôn cất, cô lập đất nhiễm dioxin ở sân bay Biên Hòa với thể tích 97.000 m3. Tiến hành một số biện pháp có hiệu quả nhằm ngăn chặn, chống lan tỏa chất độc ra môi trường như: đóng rắn (bê tông hóa) 20.000 m2 đất bề mặt khu trộn và nạp chất độc ở sân bay Đà Nẵng; xây dựng hệ thống mương nắn dòng chảy để hạn chế nước mưa chảy qua khu nhiễm; xây dựng hệ thống cống lọc chứa than hoạt tính ở cả 3 điểm nóng (sân bay Đà Nẵng, sân bay Biên Hòa, sân bay Phù Cát) để hấp thụ dioxin trong nước nhiễm, hạn chế chất độc bị cuốn trôi theo nước ra môi trường.
Hiện đang chuẩn bị xử lý đất nhiễm ở sân bay Đà Nẵng bằng phương pháp “giải hấp nhiệt”. Ở sân bay Phù Cát, năm 2008, Cộng hòa Séc đã cam kết xử lý đất nhiễm dioxin, nhưng do suy thoái kinh tế năm 2009 nên dự án này bị chậm lại.
- Công tác phục hồi các vùng đất suy thoái, phục hồi rừng, các hệ sinh thái vốn có, các loài động thực vật hoang dã được đẩy mạnh. Ngay trong thời kỳ chiến tranh, nhân dân tỉnh Cà Mau đã trồng được hơn 10.000 ha rừng ngập mặn, góp phần bảo vệ an toàn cho khu căn cứ cách mạng.
Trong 3 năm (1975 - 1977), Tp. Hồ Chí Minh đã trồng được 27.000 ha rừng đước ở rừng ngập mặn Cần Giờ, biến nơi đây trở thành 1 trong 4 khu sinh quyển của quốc gia. Gần đây, hơn 282.000 ha rừng mới trồng trên các vùng đất bị phun rải chất độc hóa học là kết quả của sự lồng ghép với chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Các dự án phục hồi rừng đã đạt kết quả khả quan tại Đăk Lăk, Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước; rừng ngập mặn Cần Giờ, Cà Mau.
- Chế độ chính sách đối với nạn nhân luôn được quan tâm và thực hiện có hiệu quả.
Đến đầu năm 2015 đã giải quyết chế độ, chính sách cho khoảng 250.000 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học (trong đó có khoảng 74.000 con của họ). Từ khi triển khai thực hiện Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và Nghị định số 31/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, đã giải quyết được khoảng 15.000 người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ được hưởng chính sách.
Cả nước hiện có 12 Làng Hòa Bình, Làng Hữu Nghị và nhiều trung tâm nuôi dưỡng trẻ khuyết tật, theo hình thức tập trung hoặc bán trú, nuôi dưỡng hàng ngàn nạn nhân, chủ yếu là trẻ em dị dạng, dị tật do ảnh hưởng CĐDC. Trung tâm tư vấn sức khỏe sinh sản di truyền tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đã và đang hoạt động tích cực nhằm giảm tỉ lệ sinh con dị tật. Một số địa phương đã tiến hành điều tra tổn thương tâm lý và trợ giúp tâm lý cho nạn nhân CĐDC.
Tuy nhiên, đối tượng được giải quyết ước tính mới đạt khoảng 12% số người bị nhiễm chất độc da cam do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam, mức trợ cấp còn thấp, đời sống nạn nhân còn rất khó khăn, nhất là các người bệnh nặng và gia đình nhiều nạn nhân, cả cha mẹ và con cháu đều bị; các chính sách đối với nạn nhân mới giải quyết được một phần (khoảng 350.000 người); số hồ sơ còn tồn đọng hàng trăm nghìn; còn nhiều nạn nhân nằm ngoài diện thụ hưởng chính sách. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện Pháp lệnh 04/2012/UBTVQH13 cũng đang nảy sinh một số vướng mắc như: giải mã phiên hiệu đơn vị, mất giấy tờ, bệnh án, tiêu chí bệnh, dị dạng dị tật…
3. Hợp tác quốc tế và hợp tác Việt Nam - Hoa kỳ trong nghiên cứu, khắc phục hậu quả CĐDC
3.1 Hợp tác quốc tế
Nhiều nhà khoa học quốc tế có uy tín trong các lĩnh vực độc học, y học, hóa học, môi trường, pháp lý… đã chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ và tham gia triển khai các dự án khắc phục hậu quả CĐDC ở Việt Nam. Nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức chính phủ, phi chính phủ như: Tổ chức Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Cục Hợp tác về phát triển Cộng hòa Séc… đã có nhiều dự án giúp Việt Nam hoặc phối hợp với Việt Nam thực hiện các dự án khắc phục hậu quả CĐDC từ nguồn tài trợ quốc tế.
3.2 Hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ
Trước năm 2000, Mỹ lảng tránh trách nhiệm.
Tháng 11/2006, trong dịp Hội nghị APEC, Việt Nam - Hoa Kỳ ra Tuyên bố chung khẳng định “Hai bên nỗ lực hơn nữa để giải quyết vấn đề nhiễm độc môi trường gần các kho chất độc chứa dioxin trước đây sẽ góp phần đáng kể vào việc tiếp tục phát triển quan hệ hai nước”.
Tháng 02/2007, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Michael Marine họp báo thừa nhận có nhiễm độc dioxin tại sân bay Đà Nẵng.
Từ năm 2007 đến nay, Quỹ Ford, Quỹ Bill & Melinda Gates, Quỹ Atlantic Philanthropies đã tài trợ một số dự án như: Dự án xây dựng các công trình chống lan tỏa tạm thời tại sân bay Đà Nẵng, Dự án xây dựng phòng thí nghiệm dioxin, Dự án nghiên cứu các công nghệ sinh học tẩy độc dioxin tại sân bay Đà Nẵng, Dự án lượng giá toàn diện ô nhiễm, phơi nhiễm và đề xuất biện pháp giảm thiểu từ 2010 - 2010…
Từ năm 2007 - 2009, Quốc hội Hoa kỳ đã thông qua khoản viện trợ 03 triệu USD/năm; năm 2010 là 15 triệu USD cho việc khắc phục hậu quả CĐDC ở Việt Nam. Năm 2011, Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ 34 triệu USD để tẩy độc sân bay Đà Nẵng.
Tuy Hoa Kỳ đã có chuyển biến trong nhìn nhận, đánh giá và tham gia khắc phục hậu quả CĐDC, nhưng còn quá nhỏ bé so với hậu quả hết sức to lớn mà họ đã gây ra cho nhân dân Việt Nam.
4. Một số điểm hạn chế, bất cập
- Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng về thảm họa da cam chưa thường xuyên, liên tục; chưa có nhiều hình thức phong phú; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa thật chặt chẽ. Một số cơ quan có trách nhiệm chưa nhận thức đầy đủ tính chất nghiêm trọng của hậu quả CĐDC, do đó, kết quả thực hiện còn hạn chế.
- Chưa có tiêu chí cụ thể, khoa học để xác định (hay kết luận) nạn nhân CĐDC.
- Việc ban hành các chế độ, chính sách cho nạn nhân CĐDC vẫn còn bất cập. Mức trợ cấp còn thấp. Thủ tục xét hưởng trợ cấp còn phức tạp. Còn nhiều nạn nhân bị hậu quả CĐDC nằm ngoài diện thụ hưởng chính sách. Đến nay, vẫn chưa có chính sách, giải pháp hỗ trợ cho những người đã và đang công tác, sinh sống ở các vùng bị rải chất độc hóa học trước đây bị bệnh hiểm nghèo và sinh con dị dạng, dị tật hoặc có nguy cơ cao nhiễm CĐDC sau ngày 30/4/1975, kể cả các hộ dân đang sinh sống ở các vùng được xác định là “điểm nóng”; chưa có chế độ trợ cấp cho thế hệ cháu (F2) của nạn nhân CĐDC.
III. HỘI NẠN NHÂN CĐDC/DIOXIN VIỆT NAM (VAVA) - TỔ CHỨC DUY NHẤT ĐẠI DIỆN CHO CÁC NẠN NHÂN CĐDC VIỆT NAM
1. Hoàn cảnh ra đời
Cuộc chiến tranh hóa học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam đã gây ra những tác hại rất to lớn và lâu dài đối với đất nước ta. Đặc biệt, tác hại của CĐDC đối với sức khỏe con người có thể còn kéo dài qua nhiều thế hệ.
Giải quyết hậu quả CĐDC, hàn gắn vết thương chiến tranh vừa là lương tâm, trách nhiệm, đạo lý đối với những người đã chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vừa là vấn đề xã hội nhân đạo đối với đồng bào ở những vùng bị ảnh hưởng CĐDC, vừa là vấn đề chính trị và ngoại giao tế nhị.
Đáp ứng yêu cầu đó, năm 1980, Ủy ban 10 - 80 ra đời đi vào hoạt động. Năm 1999, Ban Chỉ đạo 33 được thành lập. Trước đó, năm 1998, Quỹ Bảo trợ nạn nhân CĐDC thuộc Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đi vào hoạt động.
Tuy nhiên, thực tế đòi hỏi phải có một tổ chức đủ sức đảm đương những nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn mới.
Do đó, ngày 10/01/2004 Hội Nạn nhân CĐDC/dioxin Việt Nam chính thức ra mắt hoạt động (Hội được thành lập theo Quyết định số 84/2003/QĐ-BNV ngày 17/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Bà Nguyễn Thị Bình nguyên Phó Chủ tịch nước được suy tôn làm Chủ tịch danh dự; Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam giữ chức Chủ tịch đầu tiên của Hội.
2. Những vấn đề cơ bản về Hội Nạn nhân CĐDC/dioxin Việt Nam
“Hội Nạn nhân CĐDC/dioxin Việt Nam là một tổ chức xã hội đặc thù, thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội được Đảng, Nhà nước giao” (Thông báo số 292-TB/TW ngày 18/12/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng). Hội là cầu nối giữa nạn nhân CĐDC với cộng đồng xã hội.
Hội là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội được thành lập nhằm vận động các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân CĐDC; giáo dục, động viên nạn nhân vượt khó vươn lên hòa nhập cộng đồng. Hội có chức năng tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về thảm họa da cam; vận động quyên góp giúp đỡ nạn nhân; tham gia xây dựng các cơ chế, chính sách và tư vấn, phản biện các chính sách đối với nạn nhân CĐDC; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nạn nhân; đại diện cho các nạn nhân trong quan hệ với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, trong đấu tranh buộc Mỹ phải chịu trách nhiệm tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh hóa học do họ gây ra. Hội hoạt động trong phạm vi cả nước; có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
Hội viên của hội bao gồm những người Việt Nam bị phơi nhiễm và tổn thương CĐDC và các tổ chức, cá nhân tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện xin gia nhập Hội. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài có công đóng góp cho Hội được mời và công nhận là Hội viên danh dự của Hội. Những người có nguyện vọng làm cộng tác viên, tình nguyện viên, người tài trợ được Hội tạo điều kiện tham gia các hoạt động của Hội.
Hội hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật; đoàn kết, tương trợ, bình đẳng và hợp tác.
Từ ngày thành lập đến nay, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội; sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân các địa phương; với tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo, Hội Nạn nhân CĐDC/dioxin Việt Nam đã triển khai toàn diện các mặt công tác và đạt được những kết quả đáng kể.
2.1- Hệ thống tổ chức hội được xây dựng và phát triển nhanh; vị thế, uy tín của hội ngày càng được khẳng định và nâng cao.
Vượt khó khăn nhiều mặt, nhất là về kinh phí hoạt động và điều kiện làm việc, các cấp hội đã nỗ lực hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần tích cực vào việc chăm sóc, giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân CĐDC.
Đội ngũ cán bộ hội hầu hết được tôi luyện và trưởng thành qua kháng chiến, có uy tín xã hội. Nhiều cán bộ giàu nhiệt tình, tâm huyết, luôn luôn tìm tòi sáng tạo, đổi mới phong cách làm việc, giữ mối quan hệ tốt với cấp ủy, chính quyền, các ngành, các tổ chức cá nhân, các nhà hảo tâm trong nước và ngoài nước, góp phần quan trọng vào sự phát triển và nâng cao vị thế, hiệu quả hoạt động của tổ chức hội.
Hội đã kịp thời phát hiện những bất cập trong thực hiện chế độ, chính sách đối với nạn nhân CĐDC, tích cực đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi chế độ, chính sách theo hướng có lợi cho các đối tượng nạn nhân.
Hội đã ký kết Chương trình phối hợp hoạt động với Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Cựu thanh niên xung phong, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam; phối hợp hoạt động trong nhiều lĩnh vực cụ thể với nhiều tổ chức khác.
2.2- Công tác tuyên truyền - thi đua luôn được đẩy mạnh, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh đòi công lý và vận động quyên góp để chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân.
Hoạt động tuyên truyền tập trung vào mục tiêu nâng cao hiểu biết của nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế về thảm họa da cam ở Việt Nam; khuyến khích các tổ chức, cá nhân ở trong ở trong và ngoài nước ủng hộ, giúp đỡ nạn nhân CĐDC trong cuộc sống và trong cuộc đấu tranh đòi công lý; động viên các nạn nhân vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Trong các dịp lễ, tết, nhất là ngày vì nạn nhân CĐDC Việt Nam (10/8 hàng năm), các cấp hội đã chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông, các đơn vị nghệ thuật, các tổ chức xã hội - từ thiện tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực. Các chương trình tọa đàm, giao lưu nghệ thuật trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và các đài phát thanh - truyền hình địa phương; các cuộc gặp mặt, mít tinh, nói chuyện tại các cơ quan, đơn vị, nhà trường, địa phương; các cuộc triển lãm tranh, ảnh; các đêm ca nhạc, kịch; các bộ phim, sách, ảnh, tờ gấp, tài liệu, tư liệu khoa học… đã thu hút được sự chú ý của công chúng, sự quan tâm của dư luận trong và ngoài nước.
Các hoạt động tuyên truyền đã phát huy tác dụng tích cực và đạt được kết quả đáng kể. Trong năm 2004 và đầu năm 2005, phong trào Ký tên ủng hộ VAVA và các nạn nhân kiện các công ty hóa chất Hoa Kỳ đã thu thập được hơn 12,5 triệu chữ ký và hơn 700.000 người đăng ký ký tên trên mạng internet.
Phong trào thi đua “Vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam” gồm 5 mục tiêu do Trung ương Hội phát động ngày 12/2/2007 đã được các cấp hội hưởng ứng, triển khai thực hiện tốt.
2.3- Hoạt động đối ngoại được triển khai tích cực, ngày càng đi vào chiều sâu và đạt được kết quả khả quan.
Hội đã tích cực tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, tham gia các cuộc đấu tranh vì hòa bình chống bom A & H, chống vũ khí hóa học, vũ khí giết người hàng loạt, bảo vệ nhân quyền, thực thi công lý, phòng ngừa tội ác chiến tranh. Hội đã phối hợp hoạt động với nhiều tổ chức, cá nhân nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Canada, Úc, Ấn Độ, New Zeland, Italia, Iran, Nhật Bản, Lào, Campuchia… tạo ra sự liên kết rộng rãi với các tổ chức nhân đạo, nhân quyền trên thế giới.
Hội đã xác lập và thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ với hơn 60 tổ chức, cá nhân ở các nước; tổ chức đón nhiều đoàn khách quốc tế vào làm việc, trong đó có 3 đoàn cựu chiến binh Mỹ và con em của họ sang thăm Việt Nam; cử nhiều đoàn đi nước ngoài, trong đó có 9 đoàn đi Mỹ để vận động chính giới và các tầng lớp nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh đòi công lý của các nạn nhân CĐDC.
Hội đã đón nhiều nhà hoạt động xã hội, nhà khoa học, bác sĩ, luật sư, nhà báo… đến từ nhiều nước; tổ chức cho họ đi thực tế, thăm các trung tâm phục hồi chức năng và nuôi dưỡng nạn nhân CĐDC, quay phim, chụp ảnh ở nhiều địa phương. Nhờ đó, nhiều tác phẩm điện ảnh, tác phẩm báo chí của các bạn nước ngoài về thảm họa da cam ở Việt Nam đã được quảng bá trên các kênh truyền hình lớn, các tờ báo lớn ở nhiều nước trên thế giới.
Hoạt động đối ngoại đã nâng cao vị thế, uy tín, ảnh hưởng của VAVA trên trường quốc tế. Hội đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ từ các Hội Hữu nghị với Việt Nam của các nước Anh, Pháp, Đức, Nga, Hội đồng Hòa bình thế giới, Hội Luật gia dân chủ quốc tế, Ủy ban đoàn kết với Việt Nam - Lào - Campuchia của Anh quốc, Ủy ban Hòa bình Brazil, Hội Cựu chiến binh thương tật do chất da cam Hàn Quốc (KAOVA), Hội Cựu chiến binh Mỹ vì hòa bình (VFP), Tổ chức Vận đông cứu trợ và trách nhiệm đối với nạn nhân CĐDC Việt Nam ở Mỹ (VAORRC), Tổ chức Cựu chiến binh chống chiến tranh ở Iraq (IVAW) của Mỹ, Tổ chức Nhịp cầu hòa bình hữu nghị giữa giữa Nam Osaka và Châu Á của Nhật Bản (NPO-MOA), Tổ chức Hòa bình xanh của Ấn Độ (Greenpeace Indian Society), Tổ chức Vì trẻ em dioxin của Pháp (Les Enfants de la dioxin), Ủy ban Hoa Tài của Trung Quốc…
Hoạt động đối ngoại của VAVA đã góp phần quan trọng đưa vấn đề da cam thành một chủ đề được quan tâm trong dư luận quốc tế, buộc Hoa kỳ phải công nhận CĐDC là một vấn đề cấp bách cần phải được giải quyết. Đáng chú ý là, Tiểu ban Châu Á - Thái Bình Dương và Môi trường toàn cầu thuộc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ đã tổ chức 3 phiên điều trần với 3 chủ đề khác nhau. VAVA đã được mời dự 2/3 phiên điều trần nói trên. Ngoài ra, lãnh đạo VAVA còn được mời tham gia Hội nghị thường niên của Tổ chức Y tế cộng đồng Mỹ.
Sau khi Tòa án Hoa Kỳ từ chối thụ lý vụ kiện của CĐDC Việt Nam, theo sáng kiến của Hội Luật gia dân chủ quốc tế, Tòa án Lương tâm nhân dân quốc tế về chất độc da cam đã được tổ chức tại Paris (Thủ đô Cộng hòa Pháp) từ ngày 16 - 17/5/2009. Dựa trên các điều luật quốc tế, Tòa khẳng định: việc sử dụng dioxin là một tội ác chiến tranh chống loài người. Tòa phán quyết: Chính phủ Mỹ là thủ phạm sử dụng chất dioxin mà hậu quả của nó đối với môi trường Việt Nam có thể coi là “diệt chủng môi trường”; các công ty hóa chất Mỹ là tòng phạm trong các hành động của Chính phủ Mỹ. Chính phủ Mỹ và các công ty hóa chất cung cấp CĐDC phải bồi thường toàn bộ cho các nạn nhân CĐDC và gia đình họ, phải có trách nhiệm làm sạch môi trường, tẩy sạch CĐDC khỏi các vùng đất và nước bị nhiễm độc ở Việt Nam, đặc biệt là tại các “điểm nóng” xung quanh các căn cứ quan sự cũ của quân đội Mỹ.
Hội đã tranh thủ được sự ủng hộ về tài chính của một số tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, để khắc phục hậu quả CĐDC. Điển hình là Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) tài trợ 255.000 USD xây dựng Cơ sở 3 - Trung tâm bảo trợ nạn nhân CĐDC & trẻ bất hạnh ở Tp. Đà Nẵng, Tổ chức ABLE Asia Pacific (Vì Cuộc sống và Giáo dục tốt hơn) đã tài trợ 205.000 USD để xây dựng Trung tâm thanh lọc độc tố ở tỉnh Thái Bình…
2.4- Hoạt động quyên góp, chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân thường xuyên được chú trọng, triển khai tích cực và đạt kết quả tốt.
Chỉ tính đến 31/12/2010, Hội đã vận động ủng hộ Quỹ nan nhân CĐDC/dioxin được gần 199 tỷ đồng; trong đó các tổ chức và cá nhân trong nước ủng hộ gần 171 tỷ đồng, các tổ chức và các cá nhân nước ngoài ủng hộ hơn 28 tỷ đồng.
Số tiền nói trên đã được chi cấp làm 1.532 ngôi nhà, xây dựng 12 cơ sở bán trú, 298 suất trợ cấp tìm việc làm; 773 suất trợ cấp học bổng, gần 32.000 suất trợ cấp vốn sản xuất, khám chữa bệnh, gần 160.000 suất trợ cấp Ngày 10/8 và Tết Nguyên đán.
Một số địa phương đã vận động các nhà hảo tâm trong và ngoài nước giúp đỡ nạn nhân bằng hình thức trao tặng hiện vật, đầu tư trực tiếp. Chỉ riêng năm 2010, các khoản tài trợ bằng hiện vật, đầu tư trực tiếp không qua Quỹ quy thành tiền là 40,8 tỷ đồng để xây dựng 3 trung tâm phục hồi chức năng (Đà Nẵng, Thái Bình, Bà Rịa – Vũng Tàu), xây dựng 20 ngôi nhà tình thương, trợ cấp 580 suất học bổng, trợ giúp 40 con em nạn nhân tìm việc làm; có 25.577 lượt nạn nhân được khám chữa bệnh, cấp vốn sản xuất, trợ cấp khó khăn…
Nhân Ngày vì nạn nhân CĐDC Việt Nam 10/8/2009, Trung ương Hội đã phát động Cuộc vận động Vì nạn nhân CĐDC Việt Nam nhằm mục tiêu đợt I là xây dựng 55 trung tâm nuôi dưỡng nạn nhân bán trú, 550 ngôi nhà tình nghĩa, trợ cấp 1.100 suất học bổng, trợ cấp 1.100 suất tìm việc làm với tổng giá trị là 63,8 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2010 chỉ tiêu về tài chính của đợt I đã đạt và vượt kế hoạch (103 tỷ đồng/63,8 tỷ đồng).
2.5 Công tác khoa học đã làm được nhiều việc quan trọng
Hội đã phối hợp với Học viện Quân y, Ủy ban 10-80, Trung tâm Nhiệt đới Việt- Nga, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Bệnh viện Trung ương Huế tiến hành điều tra, thống kê, lập hàng ngàn hồ sơ nạn nhân CĐDC thuộc nhiều đối tượng (bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, dân thường…), nhiều thế hệ (P, F1, F2) và hồ sơ gia đình nạn nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, phục vụ cho cuộc đấu tranh đòi công lý, làm căn cứ đề nghị Nhà nước có chính sách với nạn nhân thế hệ thứ 3 (F2).
Tổ chức nhiều cuộc tọa đàm khoa học giữa lãnh đạo Trung ương Hội và các nhà khoa học Việt Nam với các nhà khoa học Mỹ, Pháp, Nga, Đức, Nhật Bản về hậu quả CĐDC đối với sức khỏe con người. Triển khai 2 dự án khử độc dioxin trong cơ thể nạn nhân tại tỉnh Thái Bình và thành phố Hồ Chí Minh do nước ngoài tài trợ. Tham gia soạn thảo Tiêu chí nạn nhân CĐDC, soạn thảo Đề cương Lượng giá thiệt hại đối với sức khỏe con người do hậu quả hóa học/dioxin. Biên soạn và phát hành cuốn sách “Dioxin trong chiến tranh, công nghiệp và môi trường”.
2.6 Cuộc đấu tranh đòi công lý đã giành thắng lợi bước đầu
Ngày 30/01/2004, Hội Nạn nhân CĐDC/dioxin Việt Nam và một số nguyên đơn gửi đơn tại Tòa án sơ thẩm quận Brooklyn bang New York, Hoa Kỳ kiện 37 công ty hóa chất Mỹ đã sản xuất và cung cấp hóa chất độc cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên người Việt Nam nộp đơn ra Tòa án Mỹ để kiện các công ty Mỹ. Vụ kiện của các nạn nhân Việt Nam là vụ kiện có rất đông nguyên đơn là người nước ngoài tiến hành tại Mỹ, theo luật pháp Mỹ và do quan tòa Mỹ xét xử. Đây là vụ kiện chưa có tiền lệ trong lịch sử ngành tư pháp Mỹ.
Trải qua hơn 5 năm (31/01/2004 02/3/2009), qua 3 cấp: sơ thẩm, phúc thẩm và Tòa án tối cao Liên bang của Mỹ, vụ kiện mới chỉ qua giai đoạn tiền xét xử. Trong giai đoạn này, luật sư hai bên tranh luận 6 vấn đề, trong đó có 5 vấn đề Tòa phán quyết theo lập luận của luật sư phía nguyên đơn, 1 vấn đề theo lập luận của luật sư bị đơn.
Lý do từ chối thụ lý vụ kiện của Tòa án Mỹ là bất công, là ngụy biện, là sự đảo ngược thực tế khách quan. Dư luận Mỹ và dư luận thế giới rất bất bình về thái độ thiên vị và thiếu tôn trọng công lý của Tòa án Mỹ - những điều mà Mỹ thường đem đi rao giảng khắp nơi.
Mặc dù Tòa án Mỹ từ chối thụ lý vụ kiện của các nạn nhân CĐDC Việt Nam, nhưng vụ kiện đã giành được thắng lợi quan trọng về xã hội và nhân văn, đạt được thành công lớn về nhiều mặt.
Trước hết, VAVA đã vượt qua các rào cản để đưa vụ kiện ra 3 Tòa án Mỹ (sơ thẩm, phúc thẩm, tối cao) trước sự phản đối của các công ty hóa chất và Chính phủ Hoa Kỳ về nội dung kiện và tư cách của VAVAV.
Hai là, vụ kiện đã vạch trần trước dư luận thế giới âm mưu che đậy tội ác của Mỹ trong tiến hành chiến tranh hóa học bằng luận điệu “dùng chất diệt cỏ để khai quang”.
Ba là, làm cho nhân dân trong nước và thế giới hiểu rõ hơn về thảm họa da cam ở Việt Nam; thu hút sự quan tâm của dư luận trong nước, dư luận quốc tế và dư luận Mỹ, hình thành phong trào mang tính quốc tế đấu tranh chống chiến tranh hóa học, đòi Mỹ bồi thường thiệt hại cho nhân dân Việt Nam.
Bốn là, làm cho chính giới lập pháp, hành pháp Mỹ có những động thái chuyển biến bước đầu như thừa nhận có nạn nhân CĐDC, có trách nhiệm thanh khiết các “điểm nóng”.
Việc Tòa án Mỹ từ chối thụ lý vụ kiện không chấm dứt cuộc đấu tranh đòi công lý của các nạn nhân CĐDC Việt Nam tại Mỹ. Thời hiệu khởi kiện không bị triệt tiêu. Tư cách pháp lý của nguyên đơn Việt Nam có thể tiến hành đấu tranh pháp lý đến cùng tại Mỹ để đòi công lý.
Vì những lý do chính trị, pháp lý, xã hội, kinh tế, chính phủ và các công ty hóa chất Hoa Kỳ không dám công khai thừa nhận trách nhiệm pháp lý của họ. Nhưng trên thực tế chính giới Mỹ đã có những động thái chuyển biến bước đầu.
Với chủ trương và chiến lược, sách lược, biện pháp tiến hành đấu tranh pháp lý đã được xác định đúng hướng ngay từ đầu và với sự kiên trì, sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong quá trình đấu tranh pháp lý tiếp theo, cuộc đấu tranh pháp lý của các nạn nhân da cam nhất định thu được thắng lợi.
IV. GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ CĐDC - MỘT VẤN ĐỀ CÓ Ý NGHĨA TO LỚN VỀ CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI, KINH TẾ, MÔI TRƯỜNG & KHOA HỌC
- Thông báo số 292-TB/TW ngày 18/12/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ rõ: “Việc giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ tiến hành trong chiến tranh ở Việt Nam và công tác chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam là vấn đề vừa lâu dài, vừa quan trọng và cấp bách hiện nay. Vì vậy, các cấp ủy đảng, chính quyền cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và có những biện pháp tiến hành cụ thể để giải quyết tốt nhiệm vụ này”. Thời gian tới cần tập trung làm tốt một số vấn đề sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền (cả tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại) làm cho đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ, hiểu rõ hơn về thảm họa da cam ở Việt Nam; tiếp tục quán triệt thực hiện Thông báo số 292-TB/TW ngày 18/12/2009 của Ban Bí thư về việc giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ tiến hành trong chiến tranh ở Việt Nam và công tác chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân CĐDC. Trên cơ sở đó, tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân các cấp trong việc giải quyết hậu quả CĐDC.
Hai là, khắc phục hậu quả CĐDC là vấn đề lương tâm và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức và của mọi người dân, cần được tiến hành dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất, sự phối hợp chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương và phải được lồng ghép với quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi cơ chế, chính sách trợ giúp người bị hậu quả CĐDC, bao gồm những người tham gia kháng chiến và nhân dân bị hậu quả CĐDC trước và sau tháng 4/1975. Tăng cường năng lực và cơ sở vật chất cho các cơ sở chăm sóc nuôi dưỡng nạn nhân CĐDC.
Bốn là, xây dựng Hội Nạn nhân CĐDC/dioxin các cấp vững mạnh, phát huy vai trò tích cự của Hội, tạo điều kiện thuận lợi cho Hội hoạt động theo đúng mục đích, tôn chỉ, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của một tổ chức xã hội đặc thù. Các cấp hội cần nhạy bén nắm bắt tình hình, chủ động tham mưu đề xuất với cấp ủy, chính quyền về chủ trương công tác, chương trình, kế hoạch hành động của cấp mình, tranh thủ sự ủng hộ của lãnh đạo, của các cơ quan ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan báo chí; phối hợp chặt chẽ với các tổ chức có liên quan để thực hiện chương trình, kế hoạch đã xác định. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ hội. Đặt lên hàng đầu công tác chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân, coi đó là thước đo chủ yếu đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức hội. Tích cực đề xuất, tham gia ý kiến vào việc bổ sung, sửa đổi chế độ, chính sách của Nhà nước đối với nạn nhân CĐDC.
Năm là, xã hội hóa các hoạt động khắc phục hậu quả chiến tranh hóa học, huy động toàn dân tham gia chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân CĐDC. Các hoạt động ủng hộ, giúp đỡ nạn nhân phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú. Phổ biến, nhân rộng những mô hình chăm sóc nạn nhân có hiệu quả, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, phong tục tập quán của địa phương và tâm lý, tình cảm của người Việt Nam; có nhiều hình thức tri ân những tấm lòng vàng vì nạn nhân CĐDC, cổ vũ mạnh mẽ những gương vượt khó vươn lên của nạn nhân CĐDC.
Sáu là, mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ về nguồn lực, khoa học - công nghệ và kinh nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các nhà khoa học, luật gia, các nhà hoạt động xã hội từ thiện nhân đạo trên thế giới.
Ngày 14/5/2015, Ban Bí thư Trung ương Đảng có Chỉ thị số 43-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đã đánh giá:
Qua 5 năm thực hiện Thông báo kết luận số 292-TB/TW của Ban Bí thư khóa X, công tác giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ tiến hành trong chiến tranh ở Việt Nam và chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam đã đạt được kết quả quan trọng. Cấp ủy, chính quyền, Mặt trân Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp đã quan tâm, có chủ trương, biện pháp, hành động thiết thực, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương, đơn vị; tích cực triển khai chủ trương xã hội hóa công tác chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam.
Phong trào “Hành động vì nạn nhân chất độc da cam” được nhân dân đồng tình hưởng ứng, thu hút sự quan tâm của người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Hệ thống văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và quy định về chế độ, chính sách được ban hành kịp thời, tương đối đồng bộ, tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi để tổ chức thực hiện.
Tổ chức Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin hoạt động có hiệu quả hơn, góp phần quan trọng trong việc chăm sóc, giúp đỡ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam.
Tuy nhiên, một số cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ, thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khắc phục hậu quả chất độc hóa học, nên kết quả còn hạn chế. Hệ thống văn bản quy định trong lĩnh vực này còn vướng mắc, khó thực hiện. Nhiều địa phương, đơn vị để xảy ra tiêu cực trong thực hiện chính sách đối với người tham gia kháng chiến, nạn nhân chất độc da cam, gây bức xúc trong nhân dân. Vai trò của Hội Nạn nhân chất độc da cam các cấp chưa được phát huy đầy đủ. Công tác chỉ đạo, phối hợp giữa các bộ, ngành chức năng và địa phương chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ.
Để tăng cường công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam, giúp nạn nhân chất độc da cam từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, Ban Bí thư Trung ương yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với việc giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam
Công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đối với môi trường và sức khỏe con người là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài, là trách nhiệm của mỗi cấp ủy đảng, chính quyền, của cán bộ đảng viên và tổ chức trong hệ thống chính trị. Cần xác định nhiệm vụ xử lý dứt điểm ô nhiễm môi trường trong khu vực còn tồn đọng chất độc hóa học và chương trình chăm sóc, giúp đỡ người dân vùng phơi nhiễm chất độc da cam vào chương trình an sinh xã hội và nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội hằng năm của địa phương, đơn vị. Tăng cường kiểm tra, giám sát, tập trung giải quyết dứt điểm từng vấn đề; trong đó phải coi trọng việc thực hiện chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam, không để xảy ra tiêu cực khi thực hiện chính sách này.
Các cấp ủy đảng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
2. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, thực hiện đầy đủ chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam
Tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chính sách, chế độ đối với người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con, cháu của họ; chế độ trợ cấp cho người bị nhiễm chất độc hóa học trong và sau chiến tranh. Bổ sung chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam là thương binh và việc áp dụng mức tỉ lệ nhiễm chất độc hóa học. Quy định tiêu chí xác định nạn nhân chất độc da cam/dioxin và tiêu chí xác định bệnh/tật do chất độc da cam; quy trình xem xét, giám định nạn nhân chất độc da cam.
Các bộ, ngành, địa phương quan tâm tạo điều kiện để Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin nâng cao chất lượng hoạt động. Có chính sách phù hợp đối với người làm việc tại Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam.
Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành chức năng xây dựng kế hoạch thực hiện, tăng cường phối hợp thực hiện tốt Quyết định số 651/QĐ-TTg, ngày 01-6-2012 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch hành động quốc gia khắc phục cơ bản hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.
3. Tiếp tục vận động, đấu tranh phù hợp với đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết hậu chất độc da cam/dioxin do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam. Các bộ, ngành liên quan và Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin Việt Nam phối hợp chặt chẽ, kiên trì đấu tranh đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam tại Việt Nam. Tăng cường vận động và đấu tranh với Chính phủ, Quốc hội và chính giới Mỹ về thảm họa chất độc do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam, qua đó yêu cầu họ có trách nhiệm cao hơn trong việc giải quyết hậu quả này.
4. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới hiểu rõ thảm họa chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam; tích cực hưởng ứng các phong trào, các cuộc vận động giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam và ủng hộ cuộc đấu tranh đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn xã hội đối với việc khắc phục hậu quả thảm họa da cam; vận động các tầng lớp nhân dân tham gia chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam. Cần chú ý tuyên truyền, tư vấn cho những người bị nhiễm chất độc da cam trong việc thực hiện chính sách dân số.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phối hợp chặt chẽ với Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam tổ chức tốt các hoạt động chăm sóc, giúp đỡ và thực hiện chế độ, chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam.
5. Củng cố, kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội, hướng về cơ sở, tích cực tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, giúp đỡ, gắn bó với các nạn nhân chất độc da cam, nhất là các nạn nhân ở vùng sâu, vùng xa; tạo mọi điều kiện để họ tiếp cận và thụ hưởng chế độ, chính sách của Nhà nước theo quy định.
Các cấp Hội Nạn nhân cất độc da cam/dioxin chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu cho các cấp ủy đảng, chinh quyền những chủ trương, chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam/dioxin.
V. KỶ NIỆM 60 NĂM THẢM HỌA DA CAM/DIOXIN Ở VIỆT NAM (10/8/1961 - 10/8/2021)
Chiến tranh đã lùi xa nhưng thảm họa da cam vẫn còn đó. Nó là nguyên nhân gây nên biết bao thảm cảnh cho người dân Việt Nam. Sự thật phải lên tiếng. Tội ác phải bị vạch trần. Công lý phải được tôn trọng. Đó là tiếng gọi của cuộc sống của lương tri và lẽ phải.
Kỷ niệm 60 năm thảm họa da cam ở Việt Nam là dịp để chúng ta khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta, ghi nhớ những mất mát to lớn, tri ân những người đã chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Hoạt động kỷ niệm có ý nghĩa thiết thực nhằm kêu gọi cộng đồng xã hội Việt Nam và cả quốc tế góp phần xoa dịu nỗi đau da cam cho hàng triệu nạn nhân và gia đình nạn nhân.
- Ngày 14/5/2015 Ban Bí thư ra Chỉ thị số 43 nhấn mạnh: Công tác giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam đối với môi trường sinh thái và sức khỏe con người là vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài, là trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền của các cán bộ, đảng viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị”.
- Tiếp theo, ngày 6/11/2015 Ban Bí thư có Thông báo số 217-TB/TW về kỷ niệm 55 năm thảm họa da cam ở Việt Nam chỉ rõ: “Việc tổ chức kỷ niệm là dịp để tuyên truyền chủ trương, quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam; góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về tính chất nguy hiểm và hậu quả lâu dài của thảm họa da cam… vận động các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, cá nhân trong ngoài nước tiếp tục giúp đỡ nạn nhân cả về vật chất và tinh thần, tạo sự quan tâm ủng hộ của dư luận trong nước và quốc tế đối với cuộc đấu tranh đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam”.
- Để quán triệt, triển khai, thực hiện Chỉ thị 43 của Ban Bí thư, ngày 21/8/2015, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chương trình hành động số 36-NQ/TU. Trong đó, yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 43-CT/TW, ngày 14/5/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam; tập trung khắc phục và giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh đối với môi trường và con người; thực hiện tốt các chế độ, chính sách và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam/dioxin là vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài, là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời, đề ra mục tiêu cụ thể phải thực hiện trong thời gian đến là:
+ 100% người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành.
+ Trên 70% người bị nhiễm chất độc hóa học được tiếp cận với các dịch vụ xã hội.
+ Các hộ gia đình nạn nhân bị nhiễm chất độc hóa học có hoàn cảnh khó khăn được trợ cấp đời sống và bảo hiểm y tế; trong đó có 100% hộ gia đình có 02 người tàn tật nặng trở lên do hậu quả chất độc hóa học được trợ cấp đời sống và bảo hiểm y tế.
+ Quản lý thai nghén 100% nạn nhân bị nhiễm chất độc hóa học.
-
Đảng ủy - UBND xã và Chi hội Nạn nhân chất độc da cam Đioxin xã Quang Thiện thăm và tặng quà Nhân dịp kỷ niệm 63 năm ngày "Thảm họa da cam Việt Nam" (10/8/1961 - 10/8/2024)
Thứ sáu, 09/08/2024
-
Hội Khuyến học xã Quang Thiện tổ chức Đại hội Hội Khuyến học xã lần thứ VI, nhiệm kỳ 2024-2029
Thứ sáu, 24/05/2024
-
Hội nghị tổng kết phong trào thi đua cựu chiến binh gương mẫu giai đoạn 2019 - 2024 xã Quang Thiện.
Thứ năm, 16/05/2024
-
Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quang Thiện lần thứ XI, nhiệm kỳ 2024 – 2029
Thứ bảy, 16/03/2024
-
Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam xã Quang Thiện tổ chức đại hội LHTN Việt Nam xã lần thứ V nhiệm kỳ 2024-2029.
Thứ sáu, 19/01/2024
-
Hội Nông dân xã Quang Thiện long trọng tổ chức Đại hội đại biểu Hội Nông Dân xã lần thứ 10 nhiệm kỳ 2023-2028
Thứ hai, 20/03/2023
-
Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 20/10/1930 - 20/10/2022
Thứ tư, 19/10/2022
-
Ra mắt mô hình “Phân loại, xử lý rác thải bằng chế phẩm vi sinh tại gia đình và khu dân cư” năm 2022 tại xóm 12 xã Quang Thiện
Thứ sáu, 07/10/2022
-
Đảng ủy – HĐND – UBND, Hội Người cao tuổi xã Quang Thiện tổ chức Thăm và tặng quà Người cao tuổi nhân dịp ngày 1/10
Thứ ba, 04/10/2022
-
Hội Phụ nữ xã Quang Thiện Ra quân hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới ngày 5 tháng 6 năm 2022 với chủ đề “Chỉ một Trái Đất”
Thứ năm, 02/06/2022
Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?
-
Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xuất bản
Ban hành: 21/11/2013
-
Quy định về quản lý cảng, bến thủy nội địa
Ban hành: 17/10/2014
-
Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ô tô khách thành phố để người khuyết tật tiếp cận sử dụng
Ban hành: 07/11/2014
-
Chương trình số 1Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên; hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, hội quần chúng các cấp, giai đoạn 2015 – 2020
Ban hành: 22/01/2016
-
Chương trình số 4Phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng nếp sống văn minh đô thị và phong cách ứng xử văn hóa của người dân thành phố Ninh Bình, giai đoạn 2015 - 2020
Ban hành: 10/03/2016
-
Kế hoạch thực hiện công tác toàn khóa số 4
Ban hành: 01/11/2016
-
Kế hoạch dịch vụ công trực tuyến giai đoạn 2016-2020
Ban hành: 30/12/2016
-
Kế hoạch thực hiện chương trình toàn khóa số 2
Ban hành: 04/01/2017
-
Quyết định về việc ban hành trương trình công tác năm 2017
Ban hành: 19/01/2017
-
Kế hoạch sưu tầm, tư liệu, tài liệu, hiện vật để chuẩn bị trưng bầy tại nhà truyền thống thành phố Ninh Bình
Ban hành: 08/02/2017
Lượt truy cập: 78368
Trực tuyến: 17
Hôm nay: 141